Xã Ia MơNông: Điểm sáng trong việc vận động nhân dân xóa bỏ các hũ tục lạc hậu trong vung đồng bào dân tộc thiểu số
Ia MơNông là xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số của huyện, toàn xã có 4.011 người, trong đó, dân tộc Jrai chiếm hơn 83%, một bộ phận nhân dân còn nặng các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, tập tục “koh bao, koh bo, koh bui” (đập trâu, đập bò, đập heo) cho người đã chết, .v.v... Thời gian qua, Đảng bộ xã Ia Mơ Nông lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiều giải pháp vận động nhân dân xóa bỏ hủ tục lạc hậu và đã đạt những kết quả rất đáng ghi nhận.
Để đẩy mạnh công tác xóa bỏ hủ tục lạc hậu tại địa phương, Đảng ủy xã Ia MơNông đã xây dựng kế hoạch số 16-KH/ĐU ngày 25/01/2019 về việc tuyên truyền, vận động nhân dân cải tạo tập quán lạc hậu trong việc cưới hỏi, việc tang và trong sinh hoạt đời sống trên địa bàn xã. Qua hơn một năm triển khai thực hiện, đã huy động được với sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của nhân dân và vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động đồng bào dân tộc thiểu số xóa bỏ các tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan như: Ma chay, cưới hỏi kéo dài, tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống, tin vào “ma lai”, “thuốc thư”, tập tục “koh bao, koh bo, koh bui” (đập trâu, đập bò, đập heo) cho người đã chết.
Công tuyên truyền, vận động xóa bỏ hủ tục lạc hậu
được xã Đảng bộ xã Ia Mơ nông quan tâm, chú trọng (Ảnh AT)
Ông Rơ Châm Kên-Bí thư Đảng ủy xã Ia Mơ Nông cho biết: “Việc tuyên truyền vận động nhân dân xóa bỏ hủ tục lạc hậu ban đầu được triển khai thí điểm tại làng Kép 1 và nhận được sự đồng tình của nhân dân. Với kết quả đạt được tại làng kép 1, Đảng ủy tiếp tục chỉ đạo các ban, ngành đoàn thể xã triển khai tới các làng trên địa bàn xã. Từ năm 2019 đến nay, xã đã tổ chức 32 buổi tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân cải tạo tập quán lạc hậu, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang tại 05 làng đồng bào dân tộc thiểu số cho 3.250 lượt người dân. Hình thức, nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động được vận dụng linh hoạt, phù hợp, đi vào những vụ việc cụ thể, giúp người nghe dễ hiểu, dễ tiếp thu và nhận thức đúng, qua đó đã giúp người dân phân biệt rõ giữa phong tục tập quán tốt đẹp cần bảo tồn, phát huy và các hủ tục lạc hậu, mê tín dị cần phải từ bỏ để chăm lo phát triển kinh tế, nâng cao đời sống và hòa nhập với cuộc sống mới hiện đại, văn minh”.
Đảng bộ xã đã chú trọng phát huy tốt vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; cử cán bộ, đảng viên bám sát địa bàn thường xuyên tiếp xúc, gặp gỡ để tuyên truyền, vận động, thông qua tiếng nói của già làng, trưởng thôn hoặc những người có uy tín trong cộng đồng, chính quyền địa phương để vận động bà con học tập theo nếp sống mới, thay đổi dần các tập quán lạc hậu.
Trong việc cưới, đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống; bổ sung quy ước, hương ước thôn bản; tổ chức ký cam kết không để con cháu tảo hôn, kết hôn cận huyết thống, không thách cưới cao. Đặc biệt tăng cường giám sát cán bộ, đảng viên thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới. Đến nay, tình trạng hôn nhân cận huyết thống không còn, tình trạng tảo hôn đã từng bước được ngăn chặn, có chiều hướng giảm dần.
Về việc tang, các địa phương đặc biệt tranh thủ các già làng, cán bộ là người dân tộc thiểu số, người có uy tín trong cộng đồng làm nòng cốt tuyên truyền, vận động nhân dân cải tạo những tập quán trong phúng viếng đám tang quá rườm rà, đi lễ, trả lễ tốn kém, lãng phí, không tổ chức đám tang trong nhiều ngày, không tổ chức trả lễ bằng trâu, bò, lợn để cúng viếng người đã khuất gây tốn kém chuyển sang các hình thức khác phù hợp hơn; hiện nay, thay vì đập trâu, bò, heo khi có đám tang có khoảng 60% đến 75% bà con đồng bào dân tộc thiểu số đã biết đi phong bì để ủng hộ cho gia đình có người mất.
Trong sinh hoạt đời sống, việc tổ chức các buổi sinh hoạt cộng đồng, hoạt động văn hóa, văn nghệ đã giúp đồng bào tiếp cận nét văn hóa mới, tiến bộ trong đời sống, sản xuất và sinh hoạt. Qua đó nhận thức của phần lớn đồng bào đã được nâng lên, nhân dân dần thay đổi nếp sống, cách nghĩ. Đến nay, cơ bản đồng bào các dân tộc thiểu số đã tích cực chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, sản lượng và giá trị cao vào sản xuất; thực hiện nếp sống văn hoá, ăn, ở hợp vệ sinh. Nhiều hộ gia đình đã làm chuồng trại xa nhà, làm nhà tiêu hợp vệ sinh... Đến nay, toàn xã có 6/6 thôn, làng đạt danh hiệu “Khu dân cư văn hóa” và 650/1.015 hộ gia đình đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”, đời sống của đại bộ phận nhân dân ngày được nâng cao, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,75%, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Những kết quả đạt được, tuy chỉ là bước đầu những rất đáng để khích lệ và là điểm sáng để tiếp tục phát huy và nhân rộng trên địa bàn. Chính sự đổi thay của bà con dân tộc Jrai nơi đây trong việc xóa bỏ những hủ tục, tập quán lạc hậu và trong sinh hoạt văn hóa đã góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của xã. Đó cũng là những bước tiến vững chắc trong việc thực hiện xây dựng nông thôn mới và từng bước giúp người dân nghèo bền vững./.
Anh Tiến